Cá ngựa là một loài cá có giá trị kinh tế cao nhờ vẻ ngoài độc đáo và có giá trị y học quan trọng. Chúng được buôn bán nhiều như các loại thuốc cổ truyền không chỉ ở Trung Quốc mà còn khá phổ biến ở Việt Nam, Philipine, Malaysia, Ấn Độ,...
Thông tin chung
Cá ngựa hay còn gọi là hải mã, là loài cá biển thuộc chi Hippocampus và họ Syngnathidae. Chúng phân bố chủ yếu ở khu vực biển Trung- Ấn và Tây Thái Bình Dương, thường sinh sống ở các thảm cỏ biển, rạn san hô và cả ven biển rừng ngập mặn.
Chúng có vai trò trong việc giúp tăng cường và cân bằng năng lượng trong cơ thể, có khả năng chữa trị các bệnh như hen suyễn, liệt dương, cholesterol cao, bướu cổ, rối loạn thận và các bệnh về da như mụn trứng cá nặng. Hàng năm có khoảng 20 triệu con cá ngựa bị đánh bắt để phục vụ để làm dược liệu.
Cá ngựa được xếp vào nhóm cá có tính bảo thủ cao về mặt hình thái, thiếu một số đặc điểm hình thái đặc trưng (vây bụng và vây đuôi). Trong khi đó, những đặc điểm phân loại cá ngựa (tỷ lệ kích thước cơ thể, số lượng đốt thân) lại có tính biến dị cao và thường chồng lấn và đan xen nhau giữa các loài.
Mặt khác, do sự thiếu đa dạng trong đặc điểm hình thái (dấu hiệu phân loại ít và nhỏ lẻ), thiếu mô tả gốc và sự giả trang (camouflage) của cá ngựa bằng cách thay đổi màu sắc hoặc cấu trúc da để thích nghi với môi trường sống, đã gây ra nhiều khó khăn trong việc định danh các loài cá này. Dẫn đến có rất nhiều loài đã bị định danh nhầm đặc biệt là đối với cá ở dạng khô. Các đặc điểm về kích thước của gai thân, gai mắt, má gai và gai mũi, các dấu hiệu hoặc hoa văn như đốm hoặc sọc, chiều dài của mõm là những đặc điểm chính dùng để nhận dạng loài cá ngựa.
Nhận dạng các loài cá ngựa
Cá ngựa gai (H. spinosissimus): Trên cơ thể có khá nhiều gai, những gai ở vị trí đốt thân số 1, 4, 7, 11 dài hơn những gai dài trên phần đuôi, chùm gai đỉnh đầu ngắn với bốn hoặc năm gai nhọn, gai má đơn hoặc đôi, trên mũi không có gai hoặc gai rất nhỏ.
Cá ngựa barbouri (H. barbouri): Trên cơ thể có khá nhiều gai, gai trên đỉnh đâu với năm gai nhọn cao, gai má kép, gai kép ở dưới mắt, gai nhọn nổi bật ở phía trước của mắt và phía trên mắt, gai ở thân lưng thứ nhất dài hơn nhiều so với những gai khác và cong về phía sau, gai đuôi thường xuyên xen kẽ theo chiều dài (dài, ngắn), các đường nhăn phát ra từ mắt, mõm thường có sọc
Cá ngựa đen (H. kuda): Thân nhẵn, không có gai, gai đỉnh đầu thấp, gai má đơn.
Cá ngựa nhỏ (H. fuscus): Thân nhẵn, hoặc có gai thấp, gai đỉnh đầu thấp, gai má và mắt thấp.
Cá ngựa vằn (H. comes): Gai dạng núm, gai mũi cao, gai má đôi, gai đỉnh đầu thấp, đầu hẹp và ngắn, đuôi có sọc, mịn các đường trắng tỏa ra từ mắt
Cá ngựa gai dài (H. histrix): Các gai dài, cực kỳ sắc nhọn, mõm dài, chùm gai đỉnh đầu với bốn hoặc năm gai dài và sắc nhọn, các gai nhọn nổi bật ở má, mắt, mũi và mặt trước, mũi nhọn và sẫm màu.
Cá ngựa chấm (H. trimaculatus): Gai thấp và nhỏ, gai trên đỉnh đầu thấp, gai má và mắt hình móc câu, có những đốm đen lớn trên mặt lưng của các vòng thân thứ 1, 4 và 7 (phổ biến ở đực trưởng thành hơn cái).
Cá ngựa thân trắng (H. kelloggi): Dáng cơ thể hẹp, gọn, gai thấp và tròn, chùm gai đỉnh đầu cao trung bình với năm gai ngắn và tấm cao ở phía trước, gai mắt và má đơn nổi bật, những đốm trắng nhỏ chạy dọc trên cơ thể
Cá ngựa Thái Bình Dương (H. ingens): Kích thước lớn, các đường trắng mịn và 6-10 vạch sẫm chạy dọc xuống thân gai có thể thay đổi từ những vết sưng thấp và tròn thành những gai phát triển tốt và có đầu cùn, gai đỉnh đầu cao, gai má và gai mắt tròn nổi bật.
Cá ngựa mõm ngắn (H. mohnikei): Kích thước nhỏ, đuôi cực dài cân đối với cơ thể, thân rộng, thân nhẫn, gai má tròn đôi, gai tròn kép ở dưới mắt, mõm ngắn
H. erectus: Thân rộng, đuôi vạm vỡ, các gai trên cơ thể thay đổi từ không có đến phát triển với các đầu nhọn hoặc cùn, hình tròn biến đổi và thấp với các cạnh hoặc gai sắc nhọn, các gai ở má đơn hoặc hai bên là các gai ở má đơn hoặc đôi, đuôi thường có những chấm trắng li ti.
H. capensis: Không có gai trên cơ thể, gai đuôi ngắn và cùn, không có gai đỉnh đầu, mõm ngắn, con đực có sừng nhẹ.
Cá ngựa Jayakar (H. jayakari): Gai dài và nhọn có đầu sẫm màu, không có gai trên các vòng đuôi, gai má đôi, gai đôi ở dưới mắt, gai dài và sắc nhọn ở phía trước của vòng tròn đuôi và trên mắt, đường vân giữa sẫm màu.
Bệnh cạnh nhận dạng các loài cá ngựa bằng hình thái thì cá ngựa còn được nhận dạng bằng DNA, phương pháp này cho kết quả chính xác hơn. Hiện nay nhiều nước trong khu vực đã xây dựng bộ dữ liệu về mã vạch DNA cho các loài cá ngựa, ngoài mục tiêu xác định đúng loài trong kinh doanh và tiêu dùng, thì mã vạch DNA có giúp trong bảo tồn cá ngựa ngăn chặn đánh bắt và buôn bán bất hợp pháp.
Nguồn: Xi Wang, Hongjin Zhong, Jinlin Guo & Feixia Hou (2020): Morphology and molecular identification of the zoological origin of medicinal seahorses in Chinese herbal markets, Mitochondrial DNA Part A.