Cá Giống Trường Phát Cá Giống Trường Phát
Doanh nghiệp thủy sản đón bắt cơ hội từ các Hiệp định thương mại

Doanh nghiệp thủy sản đón bắt cơ hội từ các Hiệp định thương mại

Home Tin Tức Doanh nghiệp thủy sản đón bắt cơ hội từ các Hiệp định thương mại
Doanh nghiệp thủy sản đón bắt cơ hội từ các Hiệp định thương mại
05/08/2015
39 Lượt xem

Chia sẻ với:

Doanh nghiệp thủy sản đón bắt cơ hội từ các Hiệp định thương mại

Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản của nước ta mở rộng thị trường và hưởng mức thuế ưu đãi từ các Hiệp định. Tuy nhiên, khi hàng rào thuế quan dần được loại bỏ, các thị trường tiêu thụ tôm được coi là khó tính và có giá trị cao như EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... ngày càng đặt ra các quy định ngặt nghèo. Cùng với tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hoá là yêu cầu mà các thị trường này đang đòi hỏi các doanh nghiệp phải vượt qua. Ngoài ra, các thị trường này còn đòi hỏi các yêu cầu về an sinh xã hội, điều kiện sản xuất cực kỳ khó khăn.


Những năm qua, xuất khẩu tôm Việt Nam đã có những bước phát triển đột phá, tôm Việt Nam xuất khẩu sang hơn 80 thị trường với kim ngạch xuất khẩu tôm năm 2014 đạt 3,9 tỷ USD. Trước những cơ hội mở rộng thị trường và hưởng mức thuế quan ưu đãi từ các Hiệp định, ngay từ lúc này chúng ta cần phải đổi mới công nghệ, thực hiện nghiêm ngặt các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm từ đó nâng cao giá trị gia tăng của giá trị con tôm cũng như cạnh tranh tốt với các sản phẩm của các nước khác.

Tuy nhiên, ngành tôm Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập như cơ cấu hàng giá trị gia tăng còn thấp, việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm còn khó khăn. Tuy các sản phẩm tôm chế biến sâu, làm sẵn có giá trị gia tăng tương đối cao chiếm khoảng 65% cơ cấu sản phẩm tôm nhưng chi phí chế biến cao tương ứng nên hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Việc thay đổi cơ cấu mặt hàng để sản xuất các mặt hàng mới có giá trị gia tăng cao còn nhiều khó khăn do thiếu vốn, công nghệ, lao động, thông tin và khách hàng. Do đó cần phải đổi mới sản xuất, thay đổi công nghệ và hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất để chinh phục các thị trường khó tính, giá trị gia tăng cao như Mỹ, Nhật Bản, EU… để nâng cao giá trị xuất khẩu tôm.

Người tiêu dùng tại các thị trường khó tính này sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm thủy sản có chất lượng tốt nhưng họ đặc biệt quan tâm đến vệ sinh an toàn thực phẩm, đặt ra những quy định rất khắt khe về chất lượng sản phẩm. Cụ thể nhất là danh mục các hóa chất và kháng sinh bị cấm, hạn chế sử dụng thường xuyên được bổ sung, mức phát hiện dư lượng liên tục bị hạ thấp. Đó là một loại rào cản kỹ thuật buộc các nhà xuất khẩu thủy sản của Việt Nam phải liên tục khắc phục.

Trong các thị trường này, Nhật Bản được coi là một thị trường khó tính nhất thế giới, hàng rào hải quan cũng rất khắt khe, hàng hóa muốn được nhập khẩu vào Nhật Bản phải đạt chất lượng khá cao, đặc biệt về hàng thực phẩm cần có những yêu cầu rất nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm.

Thời gian qua, thị trường xuất khẩu của chúng ta luôn phải đối mặt với những rào cản kỹ thuật, bị cảnh báo ngừng xuất khẩu. Trong hoạt động nuôi tôm, nguy cơ ô nhiễm môi trường, dư lượng hóa chất, kháng sinh chưa được kiểm soát tốt khiến cho người tiêu dùng lo lắng về chất lượng sản phẩm nên họ đòi hỏi phải biết nguồn gốc thực phẩm mình sẽ sử dụng được sản xuất từ đâu, qua các quy trình công nghệ thế nào. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống theo dõi, giám sát và có khả năng truy xuất nguồn gốc quá trình nuôi, chế biến đến tiêu thụ tôm tại Việt Nam còn rất hạn chế.

Ðể sản phẩm tôm Việt Nam chinh phục các thị trường khó tính và giá trị cao, ngành nông nghiệp đã xây dựng lộ trình phát triển diện tích tôm nuôi công nghiệp, tôm quảng canh cải tiến, tôm sinh thái… Quan trọng hơn cần đẩy mạnh áp dụng các quy trình nuôi và đạt được chứng nhận nuôi thủy sản an toàn như: VietGAP, GlobalGAP, ASC, BMP… Ðồng thời, đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến trong chế biến để nâng cao năng suất lao động và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm theo ISO, HACCP, GMP, SSOP… tại các nhà máy chế biến thuỷ sản.

Chuyển đổi cơ cấu các sản phẩm thuỷ sản chế biến xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các sản phẩm giá trị gia tăng. Đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm từ ao nuôi đến bàn ăn, truy xuất nguồn gốc trong nuôi trồng thuỷ sản, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò nòng cốt.

Ngoài ra, giảm giá thành nuôi tôm là cách tiếp cận quan trọng cho phát triển ổn định và bền vững, là yếu tố chính để tạo dựng và duy trì năng lực cạnh tranh cho ngành tôm. Vì vậy, việc xem xét và cải thiện chất lượng con giống, giá thức ăn nuôi tôm, tâm lý và nhận thức của người nuôi, quản lý hệ thống phân phối thuốc và các loại chế phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành tôm Việt Nam là thực sự cần thiết khi mà các nước sản xuất khác đang có lợi thế về nguồn nguyên liệu thức ăn, con giống.  

fistenet.gov.vn 

Tìm kiếm