

Chia sẻ với:
Kiên Giang nâng chỉ tiêu đạt trên 830.000 tấn thủy sản năm 2025
Tỉnh Kiên Giang đang đẩy mạnh nhiều giải pháp để hoàn thành mục tiêu sản lượng thủy sản 2025, ở mức 830.300 tấn, tăng 10.000 tấn so với con số dự kiến hồi đầu năm – bao gồm 420.000 tấn khai thác biển và 410.300 tấn nuôi trồng.
Nguyên nhân tăng chỉ tiêu
Sở dĩ tỉnh điều chỉnh mức sản lượng tăng là để góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của ngành nông nghiệp, hỗ trợ mục tiêu tốc độ tăng GDP năm 2025 đạt từ 8% trở lên, tăng so với kế hoạch trước là 7,5% Việc tăng gần 10.000 tấn sản phẩm có thể giúp thúc đẩy giá trị gia tăng của ngành.
Kế hoạch khai thác thủy sản
Trong mảng khai thác, Kiên Giang chủ trương:
Theo dõi chặt chẽ tình trạng thời tiết và diễn biến nguồn lợi thủy sản theo mùa vụ, hỗ trợ người dân xác định hướng đi và thời điểm ra khơi hiệu quả
Tăng cường tuần tra, kiểm soát để xử lý những hành vi vi phạm như khai thác bất hợp pháp (IUU), đặc biệt là các hành vi hủy diệt vùng biển
Khuyến khích hình thức khai thác nhóm, tổ, đội để hỗ trợ nhau tăng hiệu quả và đảm bảo vấn đề an sinh cộng đồng ngư dân.
Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản
Với mục tiêu tăng sản lượng nuôi lên 410.300 tấn, diện tích nuôi trồng được mở rộng tới 325.000 ha (tăng thêm 14.000 ha)
Nuôi tôm nước lợ được đẩy mạnh mạnh: sản lượng được nâng từ 145.000 lên 155.000 tấn nhờ áp dụng mô hình thâm canh, bán thâm canh, quảng canh cải tiến, kết hợp nuôi tôm – lúa, tôm – rừng . Mật độ thả lúc nào cũng được giám sát nghiêm ngặt để bảo đảm chất lượng tôm.
Phát triển nuôi cua biển với các mô hình đa dạng như đơn loài hoặc kết hợp cua – tôm – lúa, hoặc tôm – rừng; đặc biệt chú trọng mô hình nuôi cua gạch giàu giá trị kinh tế hơn
Ứng dụng nuôi nhuyễn thể như sò huyết, sò lông, nghêu lụa, hến biển, ốc hương, ngọc trai... tập trung ở vùng ven biển và cửa sông.
Nuôi biển công nghệ cao các loài cá quý như cá mú, cá bớp, cá chim vây vàng...; hỗ trợ ngư dân chuyển đổi hệ thống lồng bè truyền thống sang HDPE hiện đại, tăng độ bền, tăng tuổi thọ lồng và giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm
Liên kết chuỗi tiêu thụ và mở rộng thị trường để giảm giá thành và cải thiện lợi nhuận cho người nuôi.
Ứng dụng khoa học – công nghệ
Kiên Giang tập trung vào:
Tăng cường đào tạo và chuyển giao kỹ thuật cho ngư dân, như cách ứng phó với dịch bệnh, nâng cao vệ sinh môi trường trong mô hình nuôi
Triển khai mô hình nuôi thủy sản ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, từ xử lý môi trường nước, chọn giống tốt đến nuôi thâm canh trong điều kiện kiểm soát nghiêm ngặt.
Công tác giám sát, xử lý vi phạm
Cùng với việc hỗ trợ ngư dân, tỉnh dự kiến:
Xử lý nghiêm các tàu đánh bắt trái phép, hủy hoại nguồn lợi thủy sản.
Niêm phong, tịch thu phương tiện vi phạm, bảo vệ vùng biển, đảm bảo nguồn tài nguyên tái tạo và phát triển khai thác bền vững
Bối cảnh và kết quả thực hiện
Theo số liệu của Sở NN-PTNT, năm 2024, tổng sản lượng thủy sản tỉnh đạt khoảng 815.000 tấn, vượt kế hoạch đề ra. Trong đó: khai thác đạt 430.800 tấn, nuôi trồng được trên 384.000 tấn, tôm đạt 133.000 tấn, cua biển 28.500 tấn. Điều này tạo nền tảng vững chắc để nâng mục tiêu năm 2025 lên 830.300 tấn.
Năm 2025, tỉnh cũng ưu tiên sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản phục vụ nuôi trồng: theo kế hoạch, cần hơn 62,6 tỷ con giống, trong đó hiện nội tỉnh đáp ứng khoảng 46 tỷ con đến cuối tháng 4/2025 . Số còn lại vẫn phải nhập khẩu để bổ sung lượng giống cho người dân.
Thách thức và định hướng trong tương lai
Mặc dù kế hoạch tham vọng, Kiên Giang vẫn đối mặt với một số thách thức:
Nguồn giống: Việc phụ thuộc ngoài tỉnh trong khi công tác ương dưỡng còn hạn chế khiến tỉnh khó kiểm soát chất lượng giống
Hạ tầng nuôi biển: Theo đánh giá năm 2024, việc bàn giao vùng biển cho người nuôi vẫn chưa được đồng bộ, chưa hình thành chuỗi giá trị đầy đủ và các cơ sở nuôi đa phần vẫn dùng lồng gỗ truyền thống
Tăng cường đầu tư khoa học – kỹ thuật vẫn là thách thức nếu nguồn vốn, hỗ trợ doanh nghiệp và năng lực ứng dụng ở nông dân chưa được cải thiện.
Định hướng chính sách
Giao đất, giao vùng biển: hỗ trợ ngư dân ổn định nơi nuôi, giám sát quy hoạch theo từng khu vực ven biển, hải đảo.
Ưu đãi thuế và tín dụng cho các dự án nuôi biển hiện đại, giúp khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào mô hình lồng HDPE, khu sản xuất giống tập trung
Chuyển giao công nghệ và tổ chức mô hình hợp tác xã, tổ đội khai thác thủy sản để tạo nên chuỗi sản xuất gắn kết, giảm rủi ro và tăng năng suất.
Siết chặt quản lý vùng khai thác ven bờ, yêu cầu tàu cá phải có hệ thống định vị, thiết bị đo sâu, vệ sinh an toàn thực phẩm... Phát triển cơ sở giống thủy sản nội địa để giảm sự phụ thuộc bên ngoài; tiếp tục mua về để ương nếu cần thiết.
Kiên Giang đã vạch ra một kế hoạch hết sức chi tiết và sáng tạo để đạt mục tiêu trên 830.000 tấn thủy sản trong năm 2025. Sự phối hợp giữa khai thác biển truyền thống và nuôi trồng hiện đại, cùng với ứng dụng công nghệ mới và hệ thống hỗ trợ từ chính quyền sẽ là yếu tố then chốt. Tuy vậy, để đảm bảo mục tiêu thực chất, tỉnh vẫn cần từng bước khắc phục những hạn chế về giống, quản lý vùng biển và nâng cấp hạ tầng nuôi trồng. Nếu triển khai hiệu quả, Kiên Giang có thể trở thành đầu tàu cho mô hình phát triển thủy sản bền vững khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.