Do đó, các chất phụ gia thức ăn dựa trên Saccharomyces cerevisiae hoặc các đồng sản phẩm của nó đã được nghiên cứu để cải thiện hiệu suất tăng trưởng và khả năng miễn dịch của cá hải tượng (Arapaima gigas).
Chủng men Saccharomyces cerevisiae chuyên dùng làm thức ăn chăn nuôi có một số ưu điểm: Hấp thu khí oxy trong dạ dày, giúp các vi khuẩn có lợi phát triển, hạn chế sự phát triển của các vi khuẩn gây hại, sản sinh ra enzyme, chịu được pH thấp và sống sót được trong môi trường khắc nghiệt của dạ dày.
Ngoài ra, Saccharomyces cerevisiae có thể được sử dụng như một nhân tố có lợi trong xử lý môi trường ao nuôi thủy sản. Valdes và ctv (2013) đã thực hiện một thí nghiệm sử dụng một chế phẩm sinh học chứa các dòng Rhodopseudomonas palustris, Lactobacillus plantarum Lactobacillus casei và Saccharomyces cerevisiae vào môi trường nuôi. Kết quả cho thấy tôm cá lớn nhanh hơn, rút ngắn thời gian nuôi xuống 90 và 105 ngày so với đối chứng là 120 ngày. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu chất lượng nước cũng được cải thiện đáng kể như pH được ổn định, hàm lượng nitrate giảm còn 0.64 và 0.39 mg/l so với mức 0.71 mg/l ở ao đối chứng.
Cá hải tượng là loài cá có tốc độ tăng trưởng nhanh, giá thị trường cao, sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt, chịu được chất lượng nước kém, chất lượng thịt cao và năng suất phi lê (<45%) vượt trội so với các loài khác. Vì vậy, mục đích của nghiên cứu là đánh giá tác động của việc bổ sung S. cerevisiae đối với năng suất tăng trưởng và các thông số miễn dịch sinh lý ở cá hải tượng.
Thí nghiệm bao gồm 4 nghiệm thức bổ sung 0, 4, 6 và 8 g/kg S. cerevisiae trong vòng 30 ngày và sau đó đánh giá tốc độ tăng trưởng, huyết học và khả năng miễn dịch của cá hải tượng.
Nghiệm thức bổ sung 6 và 8 g/kg S. cerevisiae làm tăng sinh khối, chiều dài cuối cùng, tăng trọng lượng cơ thể, tăng trọng hàng ngày, lượng thức ăn hàng ngày, tăng trưởng cụ thể và giảm mức cholesterol. Nghiệm thức tăng trưởng thấp nhất là nghiệm thức không bổ sung S. cerevisiae vào thức ăn.
Cá được bổ sung 4 g có nồng độ hemoglobin giảm so với cá được bổ sung 6 g và 8 g. Hơn nữa, số lượng bạch cầu trung tính giảm ở cá được bổ sung 4 g so với các phương pháp điều trị khác. Sự bùng nổ hô hấp của bạch cầu tăng và số lượng tế bào lympho giảm ở cá được bổ sung 8 g/kg thức ăn. Tuy nhiên, ở tất cả các nghiệm thức, số lượng bạch cầu đơn nhân giảm so với nhóm chứng.
Sau khi xử lý căng thẳng, có sự gia nồng độ glucose trong huyết tương và giảm nồng độ globulin ở cá bổ sung 4 và 8 g/kg. Bổ sung chế độ ăn uống với 4 và 6 g/kg làm giảm mức cholesterol so với cá đối chứng và cá bổ sung 8 g/kg.
Tuy nhiên, số lượng bạch cầu, bạch cầu đơn nhân và số lượng bạch cầu trung tính tăng lên ở cá được bổ sung chế độ ăn 6 g/kg khi so với các nhóm khác. Ở cá được bổ sung 4 g/kg, mức protein huyết tương giảm trong khi nồng độ hemoglobin tăng khi so với nhóm đối chứng và cá được bổ sung 8 g/kg.
Mức protein giảm ở cá bổ sung 4 g/kg, trong khi hematocrit (phần trăm hồng cầu trong máu) giảm ở tất cả các nghiệm thức và số lượng tế bào lympho và sự hô hấp bùng nổ của bạch cầu giảm ở cá bổ sung 8 g/kg và được xử lý căng thẳng. Tăng tỷ lệ sống và tăng trưởng là một trong những vấn đề quan trọng nhất mà người nuôi cá phải đối mặt, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của vòng đời.
Do đó, bổ sung S. cerevisiae đã được khuyến khích để tăng hàm lượng protein, tác dụng kích thích miễn dịch và cải thiện tăng trưởng. Đối với cá hải tượng bổ sung từ 6 đến 8 g/kg chất kích thích miễn dịch không có tác động tiêu cực đến các thông số huyết học và sinh hóa, do đó nồng độ như vậy có thể được sử dụng như một chất kích thích tăng trưởng ở cá hải tượng.
Nguồn: MarciaKelly Reis Dias và ctv (2020). Growth and hematological and immunological responses of Arapaima gigas fed diets supplemented with immunostimulant based on Saccharomyces cerevisiae and subjected to handling stress, ScienceDirect, Aquaculture, 07/2020.