Tuy nhiên, điều đáng lo ngại hiện nay là việc truy xuất nguồn gốc từ các nước nhập khẩu ngày càng khắt khe, trong khi điều kiện để đáp ứng yêu cầu này là cấp mã số vùng nuôi lại rất khiêm tốn.
Vướng mắc do đâu?
Theo Tổng cục Thủy sản, từ khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực, đã có gần 50% số dòng thuế đang có thuế suất cơ sở từ 0 đến 22% được giảm về 0%, trong đó các sản phẩm tôm sú, tôm chân trắng đông lạnh được giảm từ mức đang áp dụng là 4,2% về 0%. Hiệp định là cơ hội tốt để đưa hàng hóa vào thị trường tiềm năng với hơn 500 triệu dân, đặc biệt là các mặt hàng thủy sản của Việt Nam.
Cơ hội mà các hiệp định này mang lại với riêng ngành thủy sản đã được chỉ ra rất nhiều, nhưng để nắm bắt được là điều không dễ. Nếu trước đây các nhà nhập khẩu chỉ yêu cầu chứng minh nguồn gốc sản phẩm sản xuất tại Việt Nam, thì nay còn đòi hỏi chi tiết đến tận vùng nuôi, ao nuôi. Để đáp ứng yêu cầu trên, người nuôi thủy sản phải thực hiện việc đăng ký, đánh mã số ao nuôi, vùng nuôi.
Trên thực tế, việc đăng ký vùng nuôi, đánh mã số ao nuôi đã được triển khai từ lâu. Nghị định số 26/2019/NĐ-CP ngày 8-3-2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thủy sản đã nêu rất rõ vai trò của địa phương về công tác cấp mã số cơ sở nuôi tôm. Nhưng đến nay việc triển khai vẫn tiến hành rất chậm.
Theo thống kê từ Tổng cục Thủy sản, riêng khu vực ĐBSCL có 494.635 cơ sở nuôi tôm nước lợ thuộc đối tượng phải thực hiện đăng ký và cấp giấy xác nhận. Tuy nhiên, đến nay 8 tỉnh ven biển ĐBSCL có nuôi tôm nước lợ mới cấp được 1.790 cơ sở. Đối với cá tra, việc cấp mã số vùng nuôi được thực hiện tốt hơn. Song đến nay cũng mới có 1.206/6.500 ao nuôi trong toàn vùng được cấp mã số cơ sở nuôi.
Được đánh giá là địa phương làm khá tốt công tác này, nhưng Sóc Trăng cũng chỉ mới cấp mã số cơ sở nuôi cho 3.500/39.990 cơ sở thuộc diện cấp mã số cơ sở nuôi; Bạc Liêu cấp 297 cơ sở. Ngoài hai tỉnh điển hình trên, ĐBSCL còn 6 tỉnh khác có nuôi tôm nước lợ đều đạt tỷ lệ cấp mã số cơ sở nuôi rất thấp, thậm chí Long An diện tích thả nuôi tôm nước lợ đến nay là 4.599ha, nhưng chưa cấp được mã số cho cơ sở nào.
Xác định đối tượng thủy sản chủ lực là cá tra, thời gian qua, TP Cần Thơ đã cấp 216/250 cơ sở nuôi cá tra. Chia sẻ những nguyên nhân làm chậm việc cấp mã số vùng nuôi, ông Trần Thanh Hải, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ cho biết: “Phần lớn hộ nuôi cá tra đều nuôi trong diện tích bãi bồi. Việc này phải có hợp đồng thuê của doanh nghiệp hoặc là người nuôi với cơ quan có thẩm quyền nhưng phần lớn là chưa thực hiện. Việc cấp mã số ao nuôi và cấp phép lồng bè còn phụ thuộc vào công tác cấp giấy sở hữu, cho thuê của Sở Tài nguyên và Môi trường nên chưa chủ động về tiến độ”.
Là doanh nghiệp gắn bó nhiều năm với con tôm, theo ông Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Thực phẩm Sao Ta (Sóc Trăng), việc chậm cấp mã số vùng nuôi có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. “Để cấp mã số cơ sở nuôi đòi hỏi thủ tục cần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chính chủ, có chức năng nuôi trồng thủy sản hoặc có hợp đồng thuê dài hạn.
Giấy tờ về đất của các hộ nuôi tôm đang nằm ở ngân hàng, nhất là giai đoạn tôm bị dịch bệnh nghiêm trọng (2010-2015), cha mẹ chia cho con chưa tách thửa, đất chưa chuyển mục đích sử dụng qua nuôi trồng dù đã có chủ trương chung... là rào cản chủ quan. Ý thức các hộ nuôi dù có đủ điều kiện đăng ký nhưng không tích cực đăng ký vì các chủ hộ nuôi này không thấy quyền lợi của mình và phải làm thủ tục ở trung tâm hành chính công thì quá xa xôi... coi như là lý do khách quan”, ông Lực phân tích.