

Chia sẻ với:
Thủy sản Việt Nam chuyển động cùng thế giới đổi thay
Trước rủi ro từ chính sách thuế quan của Hoa Kỳ, nhiều doanh nghiệp thủy sản Việt Nam chủ động tái cơ cấu thị trường xuất khẩu và để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, sản phẩm được chế biến đa dạng hơn. Trong khó khăn đang rõ khả năng chuyển động cùng thế giới thay đổi của thủy sản Việt Nam.
Kết quả xuất khẩu 5 tháng
Theo VASEP, trong 5 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản đạt 4,2 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ 2024. Dù trong tháng 5, xuất khẩu thủy sản có chững lại với 851 triệu USD, chỉ tăng 2,7% so với cùng kỳ nhưng kết quả cả 5 tháng đã phản ánh nỗ lực vượt khó của toàn ngành trong khi thị trường nhiều biến động, nhất là ảnh hưởng từ chính sách thuế quan của Hoa Kỳ.
Về sản phẩm xuất khẩu trong 5 tháng, tôm hơn 1,663 tỷ USD, tăng 28,3% so với cùng kỳ; cá tra hơn 778 triệu USD, tăng 4,2%; cá ngừ gần 380 triệu USD, giảm 1,8%. Những mặt hàng tăng ấn tượng là nhuyễn thể có vỏ đạt gần 100 triệu USD, tăng 58%; cua ghẹ và giáp xác khác hơn 136 triệu USD, tăng 40,3%; cá các loại khác hơn 865 triệu USD, tăng 19,7%; mực và bạch tuộc hơn 276 triệu USD, tăng 15,5%.
Thị trường Hoa Kỳ biến động nhanh, doanh nghiệp nước ta mau lẹ thích ứng tận dụng thời cơ. Hồi tháng 4 khi Hoa Kỳ công bố mức thuế cao, doanh nghiệp nước ta điều chỉnh và kim ngạch tháng này giảm 9% so với cùng kỳ. Sau đó, Hoa Kỳ tạm hoãn thuế quan thì doanh nghiệp nhanh chóng đảy mạnh xuất khẩu và tháng 5 đã tăng 9,8% so với cùng kỳ, đạt gần 160 triệu USD, lũy kế 5 tháng đạt 699 triệu USD. Đặc biệt, tôm sang thị trường này trong tháng 4 vẫn tăng 25% và lũy kế 4 tháng đạt 193 triệu USD, tăng 15%.
Trong lúc đó, thị trường Trung Quốc và Hong Kong, tháng 5 gần 185 triệu USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ và lũy kế 5 tháng hơn 900 triệu USD, tăng 48,6%. Trước đó, trong 4 tháng đã bứt phá với kim ngạch 716 triệu USD, tăng 57,4%,
Thị trường CPTPP trong tháng 5 đạt 224 triệu USD, tăng 7,9%; lũy kế 5 tháng hơn 1,15 tỷ USD, tăng 24,3% so với cùng kỳ.
Những tín hiệu tích cực của nỗ lực tái cấu trúc thị trường. Cơ cấu sản phẩm cũng có sự chuyển dịch đáng chú ý. Các sản phẩm chế biến giá trị gia tăng như cá tra tẩm bột, cá viên, cá tẩm gia vị, cá hộp, mực chế biến, collagen từ phụ phẩm đều tăng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tiện lợi và cao cấp. Doanh nghiệp Việt Nam đã và đang đầu tư mạnh vào công nghệ chế biến và đa dạng hóa sản phẩm.
Điển hình cá tra xuất sang EU
Số liệu của Hải quan Việt Nam, xuất khẩu cá tra sang EU trong 4 tháng đầu năm 2025 đạt 61 triệu USD, tăng 9% so với cùng kỳ. Tín hiệu tích cực sau thời gian dài suy giảm.
Điểm sáng dẫn đầu tăng trưởng là Hà Lan với hơn 17 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ. Riêng tháng 4, tăng tới 26%, đạt hơn 5 triệu USD, cho thấy nhu cầu đang phục hồi rõ rệt. Đặc biệt là các sản phẩm cá tra tẩm ướp, cắt miếng, đóng khay cho thấy sự thay đổi của doanh nghiệp nước ta. Hà Lan còn là cửa ngõ trung chuyển vào EU.
Thứ hai là Đức với 11 triệu USD, có yêu cầu cao về truy xuất nguồn gốc, chất lượng sản phẩm và chứng nhận môi trường và doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng đáp ứng. Tây Ban Nha đứng thứ 3 với 6,8 triệu USD, ưa chuộng phi lê đông lạnh tẩm ướp phục vụ phân khúc nhà hàng – khách sạn và chuỗi siêu thị bán lẻ tại các thành phố du lịch. Thị trường Bỉ hơn 6 triệu USD, chủ yếu cá tra tẩm bột chiên, cắt khúc.
Tăng mạnh nhất là Italy với 71%, đạt hơn 5 triệu USD, chú trọng các sản phẩm truy xuất nguồn gốc rõ ràng và cá tra Việt Nam có chứng nhận ASC, Global GAP đã đáp ứng. Thị trường Pháp tăng 32%, Bồ Đào Nha tăng 33%, Hy Lạp tăng 19%, mỗi thị trường chỉ 2-4 triệu USD nhưng sự trở lại với cá tra Việt Nam là tín hiệu tích cực. Một số thị trường có kim ngạch nhỏ nhưng ý nghĩa lớn ở việc mở cửa với cá tra Việt Nam: Bulgaria tăng tới 620%, Hungary tăng 37%.
Nhiều thị trường tăng trưởng, dù kim ngạch nhỏ nhưng cho thấy cá tra Việt Nam đang mở rộng đa dạng, không quá tập trung vào một số thị trường lớn. Nhiều doanh nghiệp tích cực chuyển hướng sang các thị trường có yêu cầu cao và sẵn sàng đáp ứng.
Chủ động đa dạng hóa thị trường
Dự báo của VASEP, kim ngạch xuất khẩu cá tra sang EU trong năm 2025 có thể vượt mốc 180–190 triệu USD. Đây là mốc phấn đấu mấy năm qua từ khi suy giảm mạnh vào năm 2023. Tuy nhiên, để đạt được, ngành cá tra phải tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm, tăng giá trị chế biến, duy trì chất lượng đồng đều.
Trong bối cảnh hiện nay, việc mở rộng sang thị trường ngách, các phân khúc hoặc khu vực chưa được khai thác đầy đủ cũng là hướng đi để duy trì đà tăng trưởng. Bà Lê Hằng, Phó Tổng Thư ký VASEP, phân tích khu vực Trung Đông và Bắc Phi hơn 400 triệu dân, đa phần theo đạo Hồi và có nhu cầu cao về thực phẩm Halal. Cá tra Việt Nam có khả năng chiếm lĩnh phân khúc này nếu đáp ứng các tiêu chuẩn chế biến, truy xuất và chứng nhận Halal. Pakistan, Bangladesh và các nước châu Phi Hồi giáo như Nigeria, Senegal là những thị trường tiêu thụ cá tra đông lạnh tiềm năng. Để chinh phục các thị trường ngách đòi hỏi sự linh hoạt, đa dạng sản phẩm, và giao thương ban đầu ở quy mô nhỏ để lan rộng.
Thị trường châu Phi hơn 1,4 tỷ người với nhu cầu protein động vật ngày càng tăng trong khi nguồn cá biển nội địa suy kiệt. Cá tra có thế mạnh giá hợp lý, dễ chế biến, dễ bảo quản. Thị trường Nam Mỹ, cá tra Việt Nam đã thâm nhập Brazil khá tốt và còn nhiều tiềm năng mở rộng.
Để vào thị trường cần đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Phải thay đổi 85% sản phẩm cá tra xuất khẩu là phile đông lạnh sang chế biến sâu, tiện lợi. Bao bì cũng đòi hỏi ngôn ngữ phù hợp, châu Phi khác châu Á, Trung Đông khác châu Mỹ. Sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường phải bằng chuỗi liên kết từ nuôi trồng đến chế biến.
Con đường chuyển động cùng thế giới, không chỉ với cá tra mà cho mọi sản phẩm thủy sản. Tranh thủ mạng lưới các FTA mà Việt Nam đã ký kết và triển khai với hơn 60 quốc gia để mở rộng thị trường, đồng thời nâng cấp hạ tầng, đầu tư vào truy xuất nguồn gốc, giảm chi phí logistics, tăng khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: “Việc đa dạng hóa thị trường là yêu cầu cấp thiết và là chiến lược dài hạn. Doanh nghiệp cần rà soát, tập trung phát triển các sản phẩm tiềm năng, đẩy mạnh kiểm soát chất lượng, giảm giá thành, nâng cao năng lực chế biến và xúc tiến thương mại. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nên chủ động đáp ứng tiêu chuẩn đa dạng của các thị trường xuất khẩu, kể cả những thị trường khó tính như Halal. Nếu chuẩn bị tốt, chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua các rào cản”.