Triển vọng của công nghệ RAS trong nuôi tôm thẻ chân trắng
Mới đây, trường đại học Gadjah Mada (Indonesia) đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm đánh giá mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng bằng công nghệ RAS với các mật độ khác nhau. Kết quả thử nghiệm cho thấy tôm thẻ chân trắng tăng trưởng và phát triển tốt nhất trong mô hình này với mật độ 400 con/m3, với hệ số thức ăn FCR là 1.13.
Năm 2019 vừa rồi, Hợp tác xã Quyết Thắng ở Bà Rịa – Vũng Tàu đã tiến hành thử nghiệm mô hình nuôi tôm bằng công nghệ RAS với diện tích 2.000 m2, mật độ nuôi 500 con/m3, gấp 5-6 lần so với các mô hình bình thường. Đã cho thấy các kết quả vô cùng khả quan về tốc độ tăng trưởng siêu nhanh chỉ từ 3-3,5 tháng mà đã được size 30-33 con/kg thay vì là hơn 4 tháng như trước.
Các vấn đề liên quan đến công nghệ RAS trong nuôi tôm
Do nuôi trong mô hình hoàn toàn khép kín nên các yếu tố về mùa vụ và thời tiết không ảnh hưởng đến vụ nuôi, người nuôi hoàn toàn có thể nuôi 3 vụ/năm với năng suất và hiệu quả kinh tế tương đương với nhau. Cùng với đó, các yếu tố then chốt để quyết định sự thành công của mô hình nuôi là tôm giống và chất lượng nước.
Chọn tôm giống là tôm sạch bệnh (SPF - Specific Pathogen Free)
Tôm thẻ chân trắng cũng như các giống tôm he khác, chưa có hệ miễn dịch đầy đủ nên khả năng kháng nhiễm với các mầm bệnh do virus gây ra. Trong mô hình nuôi khép kín, yếu tố nhiễm bệnh do môi trường truyền vào bể nuôi với tỉ lệ gần như bằng không. Nên chọn giống tôm SPF sẽ hạn chế tố đa yếu tố bệnh tạo điều kiện cho sự thành công của mùa vụ.
Chất lượng nước là yếu tố quyết định
Đối với bất kì đối tượng và mô hình nuôi nào, chất lượng nước là yếu tố quyết định, mô hình nuôi tôm bằng công nghệ RAS cũng không ngoại lệ. Vào mùa mưa, không như các mô hình nuôi ngoài trời bị ảnh hưởng tới độ pH và độ kiềm do tính axit của nước mưa, mô hình này được “cách ly” hoàn toàn với thời tiết và nhiệt độ tự nhiên.
Với hàm lượng trên 50 mg/L của CO2 trong nước sẽ gây hôn mê cho tôm và làm giảm độ pH, vấn đề này được giải quyết bằng hệ thống sục khí liên tục trong chu kì nước đảm bảo hàm lượng O2 lúc nào cũng trên 4 mg/L làm hạn chế tối đa tác động của hàm lượng CO2 cao trong nước lên tôm nuôi.
Một trong những mối quan tâm lớn nhất trong thiết kế và quá trình hoạt động của hệ thống RAS là độc tính của các hợp chất nitrogen, dưới ba dạng chủ yếu mà NH4+, NO2- và NO3 . Ammonia được đào thải trong quá trình hấp thụ thức ăn trên tôm. Ion NH4+ không gây độc chỉ khi ở điều kiện pH thấp thì ammonia mới tồn tại ở thể khí NH3, khi gây độc. Do hệ thống kiểm soát sự biến động của pH rất ổn định nên hàm lượng NH3 lúc nào cũng dưới 0,05 mg/L (không gây độc). Ngoài ra, nitrit (NO2-) do các vi khuẩn phân giải ammonia gây độc cho gần như tất cả sinh vật sống và chỉ có thể bị chuyển hóa thành Nitrat (NO3-), dạng ít gây độc hơn rất nhiều. Bài toán này được hệ thống lọc hóa học và lọc sinh học của RAS khử và cố định Nitrogen về dạng không gây độc lên tôm.
Mô hình nuôi tôm bằng công nghệ RAS mang tính bền vững cho môi trường, tiết kiệm được nguồn nước cung cấp, diện tích đất nuôi trồng và cũng như đảm bảo đem lại lợi ích kinh tế cao cho người nuôi. Tuy nhiên, chi phí xây dựng hệ thống rất cao cũng như để quản lý tốt mô hình cần có trình độ chuyên môn kĩ thuật tốt. Đây là mô hình được đánh giá là mô hình nuôi tôm 4.0, có tiềm năng phát triển và mở rộng trong tương lai.