Bộ NN-PTNT định hướng đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt khoảng 280.000 ha, thể tích lồng nuôi khoảng 10,5 triệu m3, sản lượng đạt khoảng 850.000 tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 800 - 1.000 triệu USD. Đến năm 2030, diện tích nuôi biển đạt khoảng 290.000 ha, thể tích lồng nuôi khoảng 12 triệu m3, sản lượng đạt khoảng 1,45 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu hải sản nuôi đạt 3 - 4 tỉ USD.
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam có nền công nghiệp nuôi biển tiên tiến, phát triển bền vững, với công nghệ hiện đại và phương thức quản lý khoa học; công nghiệp nuôi biển trở thành bộ phận chính của kinh tế biển nước ta; sản lượng nuôi biển đạt 3 triệu tấn/năm, giá trị thương mại và xuất khẩu trên 10 tỉ USD.
Bộ NN-PTNT sẽ làm gì để hoàn thành mục tiêu phát triển nuôi biển nói trên, thưa thứ trưởng?
Để hoàn thành mục tiêu nói trên, Bộ NN - PTNT sẽ phối hợp với các địa phương rà soát, hoàn thiện đề án Phát triển nuôi biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Phát triển nuôi biển đồng thời cả nuôi và trồng các đối tượng thủy sinh vật - nuôi trồng có năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển nuôi biển gắn với đổi mới và tổ chức lại sản xuất, xây dựng các chuỗi giá trị xuyên suốt cho từng nhóm sản phẩm, trong đó doanh nghiệp nuôi biển công nghiệp là yếu tố then chốt trong đề án Phát triển nuôi biển.
Đối với nuôi biển ven bờ, đảo gần bờ, từng bước hình thành và phát triển các khu nuôi biển tập trung với cơ cấu và tổ chức sản xuất hợp lý, gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái, phù hợp sức tải môi trường. Các địa phương cần xây dựng và hoàn thiện các chuỗi giá trị cho từng nhóm sản phẩm, truy xuất được nguồn gốc và được chứng nhận chất lượng, gắn kết doanh nghiệp, hợp tác xã và ngư dân từ sản xuất giống, thức ăn, công nghiệp phụ trợ đến nuôi, thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, chế biến công nghiệp, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Đối với nuôi biển xa bờ, xây dựng và áp dụng thí điểm các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp nuôi biển công nghiệp về giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản; đầu tư, thuế, tín dụng, bảo hiểm để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư nuôi biển. Hình thành và phát triển các cộng đồng doanh nghiệp lớn tham gia nuôi biển công nghiệp xa bờ tại các tỉnh trọng điểm như Quảng Ninh, Hải Phòng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang và một số địa phương có lợi thế. Phát triển mạnh nuôi cá biển công nghiệp xa bờ; xây dựng ngành công nghiệp nuôi biển xa bờ đồng bộ, hiện đại, đa dạng sản phẩm, năng suất cao, có chứng nhận chất lượng và chỉ dẫn địa lý, có khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới; gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái, quốc phòng, an ninh vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Riêng vùng biển và ven biển Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận), phát triển các trung tâm nuôi biển gắn với chế biến hải sản, dịch vụ hậu cần và hạ tầng nghề cá. Phát triển mạnh nuôi biển, đặc biệt là nuôi biển xa bờ ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận với các đối tượng lợi thế như tôm hùm, cá biển, rong tảo biển, nhuyễn thể, sinh vật cảnh và nghề cá giải trí.
Thực tế thời gian qua, công nghệ nuôi biển ở nước ta còn nhiều hạn chế. Bộ NN-PTNT có những giải pháp gì để cải thiện vấn đề này, thưa thứ trưởng?
Đối với nuôi biển trong ao, đầm, cần áp dụng phương thức nuôi quy mô công nghiệp, nuôi kết hợp các loài hải sản theo hình thức hữu cơ, sinh thái, bảo đảm sức tải môi trường; mở rộng việc áp dụng các công nghệ nuôi hiện đại như công nghệ nuôi tuần hoàn (RAS), công nghệ tạo dòng chảy trong ao (Raceway), công nghệ sông trong ao (River in pond) cho các trại sản xuất giống và nuôi biển.
Các địa phương sớm tổ chức lại sản xuất các vùng nuôi lồng bè gần bờ, chuyển đổi dần các mô hình sản xuất từ vùng eo ngách ra vịnh hở ở quy mô nuôi công nghiệp. Ưu tiên phát triển các mô hình nuôi đa loài, nuôi kết hợp cá biển với nhuyễn thể, rong tảo biển, giáp xác, tận dụng chuỗi thức ăn và bảo đảm cân bằng môi trường sinh thái.
Đối với nuôi lồng bè xa bờ, vùng biển hở, cần sử dụng đại trà các mô hình nuôi hiện đại, sử dụng lồng nổi bằng nhựa cứng HDPE, lồng nổi bằng kết cấu thép, các loại lồng chìm và bán chìm có kết cấu và vật liệu đa dạng, thích hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết và sóng, bão; gắn kết hài hòa nuôi biển với dịch vụ, du lịch sinh thái biển, dầu khí, điện gió…