Chia sẻ với:
Mô hình nuôi cua biển sáng tạo mang lại hiệu quả kinh tế cao
Mô hình nuôi cua biển trong hộp nhựa dưới tán rừng ven biển mang đầy tính sáng tạo và mới lạ, lượng cua hao hụt không nhiều mà chất lượng cua cũng không thua gì so với cua tự nhiên.
Thông tin từ hộ dân đã áp dụng mô hình nuôi này, anh Nguyễn Bửu Lộc, ấp Rạch Tràm xã Bãi Thơm, Phú Quốc chia sẻ, từ vấn đề nguồn lợi thủy sản trên biển cạn kiệt, việc chuyển sang nuôi cua biển theo hình thức này đã giúp mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.
Đối với khâu chọn giống, để tránh rủi to trong quá trình nuôi, người dân nên chú ý chọn cua màu sắc tươi sáng, nhanh nhẹn, không gãy chân, càng,…nhất là cần đồng đều nhằm thuận tiện cho quá trình chăm sóc. Cua giống kích cỡ hạt me. Đối với nuôi cua biển giai đoạn 1 sẽ có mật độ thả khoảng 3 – 5 con/m2.
Thả giống: Mở từng hộp, cho mỗi con vào một hộp sau đó buộc chặt hai hộp lại với nhau bằng dây thép không gỉ hoặc dây gân; kiểm tra nối buộc để cua không thoát ra ngoài. Nên thả giống vào lúc sáng sớm, trước khi thả nên thuần cua biển để chúng thích nghi với nhiệt độ và độ mặn của ao nuôi, thả tập trung 1 khu vực (không nên thả giáp ao) để dễ cho ăn và theo dõi.
Lưu ý: Do cua biển có tính hiếu động, bản năng tự vệ cao nên các thao tác bắt cua thả vào hộp phải nhanh, chuẩn, không để cua gắp phải bất cứ vật gì nhằm tránh làm rụng mất chân, càng cua. Thời gian thả càng nhanh càng tốt, tránh để cua bị mất nước.
Thả giàn hộp xuống: Trước khi thả gian hộp xuống tán rừng nuôi nên phun nước vào các hộp, thời gian phun nước khoảng 3 – 5 phút để cua thích nghi với môi trường nuôi.
Quản lý vụ nuôi
Phương pháp cho ăn: Cho ăn thức ăn tươi sống như cá tạp, nhuyễn thể hai mảnh vỏ... Khẩu phần ăn cho cua giai đoạn 70 - 80 g/con đến cua thịt là 2 - 3% trọng lượng thân, cho ăn 1 lần /ngày lúc chiều mát. Lượng thức ăn tăng mỗi ngày, thường xuyên kiểm tra khả năng bắt mồi của cua để điều chỉnh tăng giảm hợp lý, có thể dùng sàng ăn kiểm tra khả năng bắt mồi và sức khỏe cua.
Thường xuyên vệ sinh sạch sẽ hộp nuôi cua, dùng bàn chải nhựa cọ nhẹ mặt ngoài hộp, tránh làm cua sợ và làm đục nước vùng nuôi. Thường xuyên kiểm tra yếu tố môi trường, xem có nằm trong điều kiện cho phép và ổn định hay chưa.
Kiểm tra độ kiềm để bổ sung khi độ kiềm thấp hơn 80 mg/l bằng vôi CaCO3 với liều dùng 10 - 15 kg/1.000 m3 nước, hay bổ sung canxi vào thức ăn cho cua (Canxium, Canxiphos liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất) để giúp cua tạo cứng vỏ sau khi lột.
Trong thời gian nuôi thường xuyên quan sát hoạt động của cua, quan sát các bộ phận bên ngoài, cua phải nhanh nhẹn, khỏe, không bị nấm ký sinh bám ngoài vỏ. Nếu cua biển có hiện tượng nhiệm bệnh thì phải tìm nguyên nhân và biện pháp xử lý kịp thời.
Để cua lên gạch tốt: khẩu phần thức ăn của cua gạch hàng ngày lớn hơn 20% trọng lượng cua, mỗi ngày cho ăn 2 - 3 lần vào sáng sớm, chiều mát và lúc đêm. Cần phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe, khả năng bắt mồi của cua tại mỗi hộp nuôi.
Khi trọng lượng cua đạt cỡ khoảng 350g/con trở lên thì tiến hành thu hoạch. Nên chọn những hộp có cua đủ tiêu chuẩn kích cỡ theo yêu cầu thị trường.
Tận dụng lợi thế từ thiên nhiên
Anh Lộc cho biết sông Rạch Tràm ở xã Bãi Thơm có chiều dài khoảng 7km. Hai bên con sông có nhiều cây tràm, cây đước và các loài cây khác phát triển xanh tốt. Cua biển sống ở đây có thân đen, càng đỏ, lớn nhanh, thịt chắc và có giá trị kinh tế cao.
Với địa thế thuận lợi, anh tận dụng mé sông có cây đước rồi bao lưới xung quanh. Sau đó, đóng thêm khung cây cố định rồi thả nuôi cua biển trong hộp nhựa (mỗi hộp nhựa nuôi một con cua). Thức ăn cho cua biển là cá mồi (cá nhỏ). Chỉ cần cho ăn 2 lần/tuần là cua biển lớn nhanh, ít hao hụt.
Thời điểm thu hoạch, anh Lộc đã xuất bán ra thị trường khoảng 500 con cua biển thương phẩm. Thương lái vào tận nhà anh thu mua với giá 300.000 - 500.000 đồng/kg (tùy kích cỡ 3 - 6 con/kg), giúp anh thu về lợi nhuận hơn 60%, sau khi trừ đi chi phí.
Triển khai mô hình nuôi
Hộp nuôi cua được làm bằng nhựa PP hình chữ nhật, có kích thước dài 27 cm, rộng 20 cm và cao 40 cm; thành hộp dày 1,2 – 2 mm. Phần nắp hộp nằm trên mặt nước cao 5 – 5,5 cm. Mặt trên có cắt lỗ 3x3 cm để thuận tiện cho ăn. Đáy hộp có khoảng 12 lỗ, mỗi lỗ 8 – 10 mm cho nước luân chuyển. Việc thiết kế lỗ thoáng mặt đáy là hình chữ nhật có tác dụng làm giảm cường độ chiếu sáng của mặt trời, lưu thông nước và hạn chế thất thoát thức ăn ra khỏi hộp.